BÀI 1:
LUẬT HÀNH CHÍNH – MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN
I. NGÀNH LUẬT HÀNH CHÍNH
1. Đối tượng điều chỉnh
Ðối tượng điều chỉnh của luật hành chính Việt Nam là những quan hệ xã hội chủ yếu và cơ bản hình thành trong lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước, hay nói khác hơn đối tượng điều chỉnh của luật hành chính là những quan hệ xã hội hầu hết phát sinh trong hoạt động chấp hành và điều hành của nhà nước.
Các quan hệ xã hội thuộc đối tượng điều chỉnh của luật hành chính gồm ba nhóm lớn.
* Nhóm 1: Các quan hệ quản lý phát sinh trong quá trình các cơ quan hành chính nhà nước thực hiện hoạt động chấp hành – điều hành trên các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội
Nhóm quan hệ xã hội này là đối tượng điều chỉnh cơ bản của luật hành chính. Thông qua việc thiết lập những quan hệ loại này, các cơ quan hành chính nhà nước thực hiện các chức năng cơ bản của mình. Những quan hệ này rất đa dạng, phong phú bao gồm những quan hệ được chia thành 2 nhóm nhỏ như sau:
* Quan hệ dọc
- Quan hệ hình thành giữa cơ quan hành chính nhà nước cấp trên với cơ quan hành chính nhà nước cấp dưới theo hệ thống dọc. Ðó là những cơ quan nhà nước có cấp trên, cấp dưới phụ thuộc nhau về chuyên môn kỷ thuật, cơ cấu, tổ chức...
Ví dụ: Mối quan hệ giữa Chính phủ với UBND tỉnh Thái Nguyên; Bộ Tư pháp với Sở Tư pháp...
- Quan hệ giữa cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chung với cơ quan nhà nước có thẩm quyền chuyên môn cùng cấp.
Ví dụ: Mối quan hệ giữa Chính phủ với Bộ Công an.
- Quan hệ giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền chuyên môn ở trung ương với cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chung ở cấp tỉnh nhằm thực hiện chức năng theo pháp luật.
Ví dụ: Quan hệ giữa Bộ Tài nguyên và môi trường với UBND thành phố Hà Nội
- Quan hệ giữa các cơ quan hành chính có thẩm quyền chuyên môn ở trung ương
Ví dụ: Quan hệ giữa Bộ Tài chính và Bộ Giáo dục và đào tạo trong việc quản lý ngân sách nhà nước
- Quan hệ giữa cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương với các đơn vị trực thuộc trung ương đóng tại địa phương đó.
VD: Quan hệ giữa UBND tỉnh Thái Nguyên với trường Đại học Thái Nguyên.
- Quan hệ giữa cơ quan hành chính nhà nước với các đơn vị cơ sở trực thuộc
VD: Quan hệ giữa Bộ Tư pháp với trường Đại học Luật Hà Nội.
- Quan hệ giữa cơ quan hành chính nhà nước với các tổ chức kinh tế thuộc thành phần kinh tế ngoài quốc doanh.
- Quan hệ giữa cơ quan hành chính nhà nước với các tổ chức xã hội
VD: Quan hệ giữa Chính phủ với Mặt trận tổ quốc Việt Nam.
- Quan hệ giữa cơ quan hành chính nhà nước với công dân, người nước ngoài, người không quốc tịch.
VD: Quan hệ giữa cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại.
* Nhóm 2: Các quan hệ quản lý hình thành trong quá trình các cơ quan nhà nước xây dựng và củng cố chế độ công tác nội bộ của cơ quan nhằm ổn định về tổ chức để hoàn thành chức năng, nhiệm vụ của mình.
Hoạt động này còn được gọi là hoạt động tổ chức nội bộ, khác với hoạt động hướng ra bên ngoài. Để cơ quan nhà nước có thể hoàn thành chức năng, nhiệm vụ của mình, hoạt động quản lý nội bộ cần được tổ chức tốt, đặc biệt là những hoạt động như kiểm tra nội bộ, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của cán bộ, công chức, phối hợp hoạt động giữa các bộ phận của cơ quan, công việc văn phòng, đảm bảo những điều kiện vật chất cần thiết…
* Nhóm 3: Các quan hệ quản lý hình thành trong quá trình các cá nhân và tổ chức được Nhà nước trao quyền thực hiện hoạt động quản lý hành chính nhà nước trong một số trường hợp cụ thể do pháp luật quy định.
Trên thực tế, hoạt động quản lý hành chính nhà nước không phải chỉ do các cơ quan nhà nước tiến hành mà trong nhiều trường hợp, vì lý do chính trị, tổ chức… mà pháp luật có thể trao quyền thực hiện chấp hành – điều hành cho cơ quan nhà nước khác (VD: các tổ chức xã hội).
Hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức hoặc cá nhân được trao quyền có tất cả những hậu quả pháp lý như hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước nhưng chỉ khi thực hiện hoạt động chấp hành - điều hành cụ thể được pháp luật quy định. Hoạt động này cần phải được phân biệt rõ với hoạt động cơ quản của cơ quan nhà nước được trao quyền (chính cái đó quy định tính chất của cơ quan và các mối quan hệ)
2. Phương pháp điều chỉnh
Phương pháp điều chỉnh của Luật Hành chính là phương pháp mệnh lệnh đơn phương, được hình thành từ quan hệ quyền lực – phục tùng giữa một bên có quyền nhân danh nhà nước ra những mệnh lệnh bắt buộc đối với bên kia là cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có nghĩa vụ phục tùng.
Từ đối tượng và phương pháp điều chỉnh, chúng ta có khái niệm Luật Hành chính:
Luật hành chính là một ngành luật bao gồm tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh những quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình quản lý hành chính nhà nước của các cơ quan hành chính nhà nước, các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình các cơ quan nhà nước xây dựng và ổn định chế độ công tác nội bộ của mình, các quan hệ xã hội trong quá trình các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, cá nhân thực hiện hoạt động quản lý hành chính nhà nước đối với các vấn đề cụ thể do pháp luật quy định.
Ngoài ra có thể định nghĩa luật hành chính một cách ngắn gọn hơn: Luật hành chính là một ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam bao gồm tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tổ chức và thực hiện hoạt động chấp hành - điều hành của các cơ quan hành chính nhà nước.
3. Hệ thống ngành luật hành chính
Luật Hành chính gồm 2 phần: Phần chung và phần riêng
- Phần chung: gồm các nhóm quy phạm quy định
+ Những nguyên tắc cơ bản của quản lý hành chính nhà nước
+ Địa vị pháp lý của các cơ quan hành chính, hình thức và phương pháp quản lý cũng như văn bản quản lý
+ Địa vị pháp lý của cán bộ, công chức và hoạt động công vụ
+ Quy chế pháp lý hành chính của cá nhân
+ Trách nhiệm hành chính, thủ tục hành chính và tài phán hành chính
+ Những biện pháp pháp lý bảo đảm pháp chế trong quản lý hành chính nhà nước
- Phần riêng: gồm nhóm quy phạm quy định
+ Hoạt động quản lý chức năng như tài chính, kế hoạch, đầu tư, thống kê…
+ Hoạt động quản lý ngành như công nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận tải, thương mại, văn hóa, giáo dục, quốc phòng, tư pháp…
II. QUY PHẠM PHÁP LUẬT HÀNH CHÍNH
1. Quy phạm pháp luật hành chính
- Khái niệm: Quy phạm pháp luật hành chính là một dạng cụ thể của quy phạm pháp luật, được ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình quản lý hành chính theo phương pháp mệnh lệnh – đơn phương.
- Đặc điểm:
Ngoài những đặc điểm chung của quy phạm pháp luật như: là quy tắc xử sự chung thể hiện ý chí nhà nước, được nhà nước bảo đảm thực hiện…, quy phạm pháp luật hành chính có những đặc điểm sau:
- Thứ nhất: Các quy phạm pháp luật hành chính chủ yếu do các cơ quan hành chính nhà nước ban hành
- Thứ hai: Quy phạm pháp luật hành chính có số lượng lớn và có hiệu lực pháp lý khác nhau.
- Thứ ba: Các quy phạm pháp luật hành chính hợp thành một hệ thống trên cơ sở các nguyên tắc pháp lý nhất định.
+ Các quy phạm pháp luật hành chính do cơ quan nhà nước cấp dưới ban hành phải phù hợp với nội dung và mục đích của quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước cấp trên ban hành.
+ Quy phạm pháp luật hành chính do cơ quan hành chính nhà nước, Chủ tịch nước, tòa án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân ban hành phải phù hợp với nội dung và mục đích của quy phạm pháp luật do cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp ban hành.
+ Các quy phạm pháp luật hành chính do cơ quan nhà nước có thẩm quyền chuyên môn ban hành phải phù hợp với nội dung và mục đích của quy phạm pháp luật do cơ quan hành chính có thẩm quyền chung cùng cấp ban hành.
+ Các quy phạm pháp luật hành chính do người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước ban hành phải phù hợp với nội dung và mục đích của quy phạm pháp luật do tập thể cơ quan đó ban hành.
+ Bảm đảm tính thống nhất, phù hợp giữa các quy phạm pháp luật hành chính do các chủ thể có thẩm quyền ngang cấp, cùng địa vị pháp lý ban hành.
VD: Bộ trưởng không ban hành những văn bản trái với quy định của bộ trưởng khác.
+ Các quy phạm pháp luật hành chính phải được ban hành đúng thủ tục và dưới hình thức nhất định do pháp luật quy định.
2. Phân loại các quy phạm pháp luật hành chính
- Căn cứ vào chủ thể ban hành, các quy phạm pháp luật hành chính có thể được phân loại thành các nhóm sau:
+ Quy phạm pháp luật hành chính do các cơ quan quyền lực nhà nước ban hành.
+ Quy phạm pháp luật hành chính do Chủ tịch nước ban hành.
+ Quy phạm pháp luật hành chính do cơ quan hành chính nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước ban hành
+ Quy phạm pháp luật hành chính do Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành.
- Căn cứ vào cách thức ban hành, các quy phạm pháp luật hành chính có thể được phân loại thành các nhóm sau đây:
+ Quy phạm pháp luật hành chính do một cơ quan hay người có thẩm quyền độc lập ban hành.
+ Quy phạm pháp luật hành chính liên tịch
- Căn cứ vào mối quan hệ được điều chỉnh, các quy phạm pháp luật hành chính có thể được phân loại thành các nhóm sau đây:
+ Quy phạm nội dung: quy định nội dung quyền và nghĩa vụ các bên tham gia quan hệ quản lý hành chính nhà nước.
VD: Quy định thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính của chủ tịch ủy ban nhân dân các cấp.
+ Quy phạm thủ tục: quy định những thủ tục cần thiết mà các bên tham gia quan hệ quản lý hành chính cần phải tuân theo khi thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình do các quy phạm pháp luật nội dung quy định.
VD: Các quy định về thủ tục giải quyết khiếu nại hành chính…
- Căn cứ vào hiệu lực pháp lý về thời gian, các quy phạm pháp luật hành chính có thể được phân loại thành:
+ Quy phạm áp dụng lâu dài: trong văn bản hành chính không ghi thời hạn áp dụng, chỉ hết hiệu lực khi bị bãi bỏ hoặc thay thế.
+ Quy phạm áp dụng có thời hạn: ban hành để điều chỉnh các quan hệ quản lý hành chính nhà nước chỉ phát sinh trong tình huống đặc biệt hay chỉ tồn tại trong khoảng thời gian nhất định, khi tình huống đó không còn hay hết thời hạn đó thì quy phạm hết hiệu lực:
VD: Các quy phạm pháp luật hành chish trong Nghị quyết của Chính phủ số 12/2000/NQ-CP ngày 14/8/2000 về “ Chính sách quốc gia phòng, chống tác hại của thuốc lá” trong giai đoạn 2000-2010).
+ Quy phạm pháp luật tạm thời: ban hành để điều chỉnh một số loại quan hệ quản lý hành chính nhà nước trên một phạm vi, trong khoảng thời gian nhất định làm cơ sở tổng kết để ban hành chính thức nếu phù hợp.
- Căn cứ vào hiệu lực pháp lý về không gian, các quy phạm pháp luật hành chính có thể được phân loại thành các nhóm sau:
+ Quy phạm có hiệu lực pháp lý trên phạm vi cả nước.
+ Quy phạm có hiệu lực pháp lý trên phạm vi từng địa phương nhất định.
III. QUAN HỆ PHÁP LUẬT HÀNH CHÍNH
1. Khái niệm
Quan hệ pháp luật hành chính là một dạng của quan hệ pháp luật. Ðó là những quan hệ xã hội phát sinh chủ yếu trong lĩnh vực chấp hành điều hành giữa một bên mang quyền lực nhà nước có chức năng quản lý hành chính nhà nước và một bên là đối tượng quản lý. Các quan hệ này được điều chỉnh bởi những quy phạm pháp luật hành chính. Trong một quan hệ pháp luật hành chính thì quyền của bên này sẽ là nghĩa vụ của bên kia và ngược lại. Chúng rất phong phú và đa dạng, phát sinh trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Quan hệ pháp luật hành chính là quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình quản lý hành chính nhà nước, được điều chỉnh bởi các quy phạm pháp luật hành chính giữa các cơ quan, tổ chức, cá nhân mang quyền và nghĩa vụ đối với nhau theo quy định của pháp luật hành chính.
Ðặc điểm của quan hệ pháp luật hành chính.
- Quan hệ pháp luật hành chính có thể phát sinh theo yêu cầu hợp pháp của chủ thể quản lý hay đối tượng quản lý hành chính của nhà nước.
- Nội dung của quan hệ pháp luật hành chính là các quyền và nghĩa vụ pháp lý hành chính của các bên tham gia quan hệ đó
- Một bên tham gia quan hệ pháp luật hành chính phải được sử dụng quyền lực nhà nước
- Trong một quan hệ pháp luật hành chính, quyền của bên này ứng với nghĩa vụ của bên kia và ngược lại.
- Phần lớn các tranh chấp phát sinh trong quan hệ pháp luật hành chính được giải quyết theo thủ tục hành chính.
- Bên tham gia quan hệ pháp luật hành chính vi phạm yêu cầu của pháp luật hành chính phải chịu trách nhiệm pháp lý trước nhà nước.
2. Cấu thành của quan hệ pháp luật hành chính
a. Chủ thể của quan hệ pháp luật hành chính
Chủ thể của quan hệ pháp luật hành chính là các cơ quan, tổ chức, cá nhân có năng lực chủ thể tham gia vào các quan hệ pháp luật hành chính, mang quyền và nghĩa vụ với nhau theo quy định của pháp luật hành chính.
Năng lực chủ thể là khả năng pháp lý của cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân tham gia vào quan hệ pháp luật hành chính với tư cách là chủ thể của quan hệ đó. Tùy thuộc vào tư cách của các cơ quan, tổ chức và cá nhân mà năng lực chủ thể của họ có những điểm khác nhau về nội dung, thời điểm phát sinh và các yếu tố chi phối.
- Năng lực chủ thể của cơ quan nhà nước phát sinh khi cơ quan đó được thành lập và chấm dứt khi cơ quan đó bị giải thể. Năng lực này được quy định phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan đó trong quản lý hành chính nhà nước.
Ví dụ: Cơ quan thanh tra chuyên ngành có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính nên có khả năng tham gia vào các quan hệ pháp luật hành chính về xử phạt vi phạm hành chính đối với cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính.
- Năng lực chủ thể của cán bộ, công chức phát sinh khi cá nhân được nhà nước giao đảm nhiệm một công vụ, chức vụ nhất định trong bộ máy nhà nước và chấm dứt khi không còn đảm nhiệm công vụ, chức vụ đó. Năng lực này được pháp luật hành chính quy định phù hợp với năng lực chủ thể của cơ quan và vị trí công tác của cán bộ, công chức đó.
VD: UBND là cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chung nên có thẩm quyền xử phạt các vi phạm hành chính phát sinh trên các lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước ở địa phương. Tuy nhiên, chỉ có chủ tịch hoặc phó chủ tịch được chủ tịch UBND ủy quyền mới có khả năng này.
- Năng lực chủ thể của tổ chức xã hội, đơn vị kinh tế, đơn vị vũ trang, đơn vị hành chính – sự nghiệp… phát sinh khi nhà nước quy định quyền và nghĩa vụ của tổ chức đó trong quản lý hành chính nhà nước và chấm dứt khi không còn những quy định đó hoặc tổ chức đó bị giải thể..
- Năng lực chủ thể của cá nhân được biểu hiện trong tổng thể năng lực pháp luật hành chính và năng lực hành vi hành chính.
Năng lực pháp luật hành chính là khả năng hưởng quyền và gánh chịu nghĩa vụ hành chính. Năng lực này sẽ thay đổi nếu pháp luật thay đổi và chỉ bị hạn chế trong một số trường hợp.
VD: Người phạm tội có thể bị tòa án áp dụng hình phạt bổ sung: cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định.
Năng lực hành vi hành chính của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình có thể tự mình thực hiện quyền và nghĩa vụ pháp lý hành chính, gánh chịu những hậu quả pháp lý nhất định do những hành vi của mình mang lại.
Tùy vào tính chất và nội dung của từng loại quan hệ pháp luật hành chính cụ thể mà Nhà nước đòi hỏi cá nhân phải đáp ứng những điều kiện nhất định về độ tuổi, tình trạng sức khỏe, trình độ đào tạo, khả năng tài chính… khi tham gia vào quan hệ đó.
Tùy vào tính chất và nội dung các loại quan hệ pháp luật hành chính cụ thể mà pháp luật có thể quy định độ tuổi tối thiểu hay tối đa để xác định năng lực hành vi hành chính của cá nhân.
VD: Cá nhân phải từ đủ 14 tuổi trở lên mới có thể bị xử phạt vi phạm hành chính; công dân từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi mới có thể áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng.
Người mắc bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình thì không có năng lực hành vi hành chính đối với mọi loại quan hệ pháp luật hành chính.
Trình độ đào tạo, khả năng tài chính cũng là điều kiện xác định năng lực hành vi hành chính của cá nhân đối với một số loại quan hệ pháp luật hành chính nhất định.
VD: Công dân VN phải có trình độ cử nhân luật mới được tuyển chọn và bổ nhiệm thành thẩm phán. Cá nhân phải có số lượng vốn nhất định mới được thành lập doanh nghiệp mà pháp luật đòi hỏi phải có vốn pháp định.
Chú ý: có một loại chủ thể luôn luôn hiện diện trong mọi quan hệ pháp luật hành chính: chủ thể quản lý - bên có thẩm quyền hành chính nhà nước.
b. Khách thể của quan hệ pháp luật hành chính
Là trật tự quản lý hành chính nhà nước. Tùy vào từng lĩnh vực phát sinh, các quan hệ pháp luật hành chính sẽ có những khách thể là trật tự quả lý hành chính nhà nước tướng ứng với lĩnh vực đó.
VD: Các quan hệ pháp luật hành chính về giải quyết khiếu nại, tố cáo đều có chung khách thể là trật tự quản lý hành chính nhà nước về giải quyết khiếu nại, tố cáo.
c. Cơ sở của sự phát sinh, thay đổi và chấm dứt quan hệ pháp luật hành chính
Quan hệ pháp luật hành chính chỉ phát sinh, thay đổi hay chấm dứt khi có đủ ba điều kiện:
- Quy phạm pháp luật hành chính;
- Năng lực chủ thể hành chính;
- Sự kiện pháp lý hành chính.
Trong đó
* Quy phạm pháp luật hành chính: Là cơ sở ban đầu cho sự phát sinh, thay đổi hay chấm dứt quan hệ pháp luật hành chính, bởi vì quan hệ pháp luật hành chính quy định:
- Ðiều kiện và hoàn cảnh phát sinh quan hệ pháp luật hành chính;
- Quyền và nghĩa vụ của các chủ thể;
- Các biện pháp xử lý những trường hợp vi phạm.
Như vậy, quy phạm pháp luật hành chính quy định các quyền và nghĩa vụ của các bên trong quản lý hành chính nhà nước, quy định nội dung những quy tắc xử sự của các bên tham gia quan hệ, do đó nếu không có các chủ thể thì quan hệ pháp luật hành chính không thể phát sinh, thay đổi hay chấm dứt, bản thân nó không tạo ra được quan hệ pháp luật hành chính mà phải có những tình huống, những điều kiện cụ thể khác như chủ thể, sự kiện pháp lý ...
* Sự kiện pháp lý hành chính: là những sự kiện thực tế mà khi xảy ra làm phát sinh quyền và nghĩa vụ pháp lý hành chính. Hay nói cách khác, sự kiện pháp lý hành chính là những sự kiện xảy ra trong thực tế phù hợp với những điều kiện mà quy phạm pháp luật hành chính dự liệu trước.
Sự kiện pháp lý có hai loại:
-Hành vi: là sự kiện pháp lý chịu sự chi phối của ý chí con người, mà việc thực hiện hay không thực hiện chúng được pháp luật hành chính gắn với việc làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt các quan hệ pháp luật hành chính.
VD: hành vi khiếu nại, cố ý làm sai lệch hồ sơ...
- Sự biến: là những sự kiện xảy ra không phụ thuộc vào ý chí con người, nó mang yếu tố khách quan.
Ví dụ: lũ lụt, bão, cái chết tự nhiên của con người...
IV. CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN TRONG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
1. Khái niệm
Nguyên tắc: những điều cơ bản nhất thiết phải tuân theo trong một loạt các việc làm. (Từ điển tiếng Việt)
Ở góc độ của luật Hành chính, nguyên tắc trong quản lý hành chính nhà nước là tổng thể các quy phạm pháp luật hành chính có nội dung là những tư tưởng chủ đạo làm cơ sở để tổ chức thực hiện hoạt động quản lý hành chính nhà nước.
2. Hệ thống các nguyên tắc cơ bản trong quản lý hành chính nhà nước
a. Nhóm các nguyên tắc chính trị - xã hội
Đây là nhóm nguyên tắc chung, được quán triệt trong toàn bộ tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước, trong đó có hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Gồm:
* Nguyên tắc Đảng lãnh đạo trong quản lý hành chính nhà nước;
- Lãnh đạo bằng việc đưa ra các chủ trương, đường lối, chính sách về các lĩnh vực khác nhau của hoạt động quản lý hành chính nhà nước
- Lãnh đạo công tác tổ chức cán bộ.
- Kiểm tra việc thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng trong quản lý hành chính nhà nước.
* Nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào quản lý hành chính nhà nước;
Nguyên tắc: tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân.
- Tham gia vào hoạt động của các cơ quan nhà nước.
- Tham gia vào hoạt động của các tổ chức xã hội.
- Tham gia vào hoạt động tự quản ở cơ sở.
- Trực tiếp thực hiện các quyền và nghĩa vụ công dân trong quản lý hành chính nhà nước.
* Nguyên tắc tập trung dân chủ;
Nguyên tắc này bao hàm sự kết hợp giữa hai yếu tố tập trung và dân chủ, nghĩa là vừa bảo đảm sự lãnh đạo tập trung trên cơ sở dân chủ; vừa bảo đảm mở rộng dân chủ dưới sự lãnh đạo tập trung.
Trong quản lý nhà nước, tập trung nhằm đảm bảo thâu tóm quyền lực nhà nước vào chủ thể quản lý để điều hành, chỉ đạo việc thực hiện chính sách, pháp luật một cách thống nhất. Trong khi đó, dân chủ hướng tới việc mở rộng quyền cho đối tượng quản lý nhằm phát huy trí tuệ tập thể trong hoạt động quản lý, phát huy khả năng tiềm tàng của đối tượng quản lý trong quá trình thực hiện chính sách, pháp luật.
Cần phải có sự phối hợp một cách đồng bộ, chặt chẽ việc bảo đảm cả hai yếu tố này trong quản lý hành chính nhà nước. Nếu chỉ có sự lãnh đạo tập trung mà không mở rộng dân chủ thì sẽ tạo điều kiện cho các hành vi lạm quyền, quan liêu, hách dịch, cửa quyền tham nhũng. Nhưng nếu không có sự lãnh đạo tập trung thống nhất thì sẽ dẫn đến tình trạng tùy tiện, vô chính phủ, cục bộ địa phương.
Biểu hiện:
- Sự phụ thuộc của cơ quan hành chính nhà nước vào cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp;
- Sự phục tùng của cấp dưới đối với cấp trên, địa phương đối với trung ương;
- Việc phân cấp quản lý;
- Hướng về cơ sở;
- Sự phụ thuộc hai chiều của cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương.
* Nguyên tắc bình đẳng giữa các dân tộc
Điều 5 – HP 1992: Nhà nước thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc, nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc.
- Trong công tác đào tạo và sử dụng cán bộ;
- Trong việc hoạch định các chính sách phát triển kinh tế, văn hóa – xã hội.
* Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa
- Trong hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật
- Trong hoạt động tổ chức thực hiện pháp luật
b. Nhóm các nguyên tắc tổ chức - kỹ thuật
Đây là các nguyên tắc đặc thù cho hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Nội dung của những nguyên tắc này chi phối những yếu tố mang tính chất kỹ thuật của hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Dù được thực hiện trong điều kiện chính trị hoặc giai cấp như thế nào, hoạt động quản lý hành chính nhà nước đều phải tuân theo những nguyên tắc đó.
Nhóm này gồm nhiều nguyên tắc, nhưng trong phạm vi chương trình, tập trung nghiên cứu 2 nguyên tắc:
* Nguyên tắc quản lý theo ngành, chức năng kết hợp quản lý theo địa phương
Sự phân chia các lĩnh vực hoạt động nhằm đáp ứng yêu cầu chuyên môn hóa các hoạt động của con người đã dẫn tới việc thực hiện quản lý theo ngành. Quản lý theo ngành là quản lý các đơn vị, tổ chức kinh tế, văn hóa, xã hội có cùng cơ cấu kinh tế - kỹ thuật hoặc hoạt động với mục đích giống nhau nhằm làm cho các tổ chức, đơn vị này phát triển một cách đồng bộ, nhịp nhàng, đáp ứng được yêu cầu của nhà nước và xã hội.
Khi hoạt động quản lý ngành đòi hỏi các chủ thể quản lý phải thực hiện rất nhiều việc chuyên môn khác nhau như: lập quy hoạch và kế hoạch phát triển ngành, quản lý thực hiện các khoản thu, chi giám sát, kiểm tra việc thực hiện pháp luật…
Quản lý theo chức năng là quản lý theo từng lĩnh vực chuyên môn nhất định của quản lý hành chính nhà nước như kế hoạch, tài chính, giá cả, khoa học công nghệ, lao động, nội vụ, quan hệ đối ngoại và hợp tác quốc tế, tổ chức và công vụ. Các lĩnh vực chuyên môn này liên quan đến tất cả các bộ, các pháp nhân quản lý nhà nước, các tổ chức và cá nhân trong xã hội.
Để quản lý ngành và theo chức năng, cần thành lập các bộ, cơ quan ngang bộ để thực hiện thống nhất quản lý ngành, hoặc 1 lĩnh vực chuyên môn hoặc một vài ngành, lĩnh vực chuyên môn có liên quan trong phạm vi toàn quốc.
Chia thành 2 loại: bộ quản lý ngành (VD: Bộ y tế), bộ quản lý lĩnh vực (bộ quản lý chức năng hay bộ chuyên môn tổng hợp) (VD: )
Quản lý theo địa phương là quản lý trên phạm vi lãnh thổ nhất định theo phân vạch địa giới hành chính của nhà nước. Việc quản lý theo địa phương được thực hiện theo 3 cấp: cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã. Trong đó, ủy ban nhân dân là cơ quan hành chính có thẩm quyền chung. Các sở, phòng chuyên môn thực hiện quản lý chuyên ngành trên lãnh thổ của địa phương.
Việc quản lý theo ngành, lĩnh vực phải kết hợp với quản lý theo lãnh thổ thì mới đem lại hiệu quả quản lý.
* Nguyên tắc quản lý theo ngành kết hợp với quản lý theo chức năng và phối hợp quản lý liên ngành.
Sự phát triển của một ngành cần phải có hoạt động quản lý theo chức năng của các cơ quan chuyên môn có trách nhiệm nhằm bảo đảm cho các hoạt động chuyên môn diễn ra trong phạm vi của ngành được thực hiện một cách đồng bộ, thống nhất. Bên cạnh đó, sự tồn tại và phát triển một ngành luôn nằm trong mối quan hệ phụ thuộc vào các ngành khác có liên quan. Do vậy, cần phải kết hợp quản lý theo ngành với quản lý theo chức năng, phối hợp quản lý liên ngành đảm bảo việc thực hiện có hiệu quả từng chức năng quản lý riêng biệt của các tổ chức, đơn vị trong ngành đồng thời bảo đảm sự pahts triển của các mối quan hệ liên ngành, làm cho toàn bộ hạt động của hệ thống ngành được phối hợp chặt chẽ, có hiệu quả, đảm bảo cho hoạt động của cơ quan quản lý các ngành, chức năng và các cấp được thống nhất.
Ở VN, hệ thống các cơ quan chuyên môn tổng hợp được hình thành để thực hiện việc quản lý theo chức năng. Theo hệ thống dọc, có bộ, sở, phòng, ban chuyên môn quản lý theo chức năng. Ở mỗi cơ quan quản lý theo ngành đều có bộ phận quản lý theo chức năng như các cục, vụ, ban chịu sự quản lý của cơ quan quản lý theo chức năng có thẩm quyền ở cấp trên.
Nguyên tắc này biểu hiện cụ thể là:
- Cơ quan quản lý theo chức năng có quyền ban hành các quy định, các mệnh lệnh cụ thể có liên quan đến chức năng quản lý của mình theo quy định của pháp luật, có tính chất bắt buộc thực hiện đối với các ngành, các cấp đồng thời các cơ quan quản lý theo chức năng kiểm tra việc thực hiện các chính sách, chế độ do mình ban hành, xử lý hoặc đề nghị cấp có thẩm quyền xử lý các hành vi vi phạm các chính sách, chế độ do mình ban hành theo quy định của pháp luật.
- Các cơ quan quản lý ngành có quyền ban hành các quyết định quản lý có tín chất bắt buộc phải thực hiện đối với các ngành có liên quan trong phạm vi những vấn đề thuộc quyền quản lý của ngành và kiểm traviệc thực hiện các quyết định quản lý đó.
- Trong phạm vi công việc của mình, các cơ quan quản lý theo ngành, quản lý theo chức năng có quyền phối hợp với nhau để ban hành các quyết định quản lý có hiệu lực chung trong phạm vi hoạt động của các ngành hoặc lĩnh vực chuyên môn mà chúng được phân công trong quản lý.
V. HÌNH THỨC VÀ PHƯƠNG PHÁP QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
1. Hình thức quản lý hành chính nhà nước
a. Khái niệm
Biểu hiện ra bên ngoài của hoạt động quản lý trong những hành động cụ thể cung loại được gọi là hình thức của hoạt động quản lý. Như vậy, hình twhcs quản lý hành chính nhà nước (với tư cách là cách thức thể hiện nội dung của quản lý hành chính nhà nước trong hoàn cảnh quản lý cụ thể) là hoạt động biểu hiện ra bên ngoài của chủ thể quản lý nhằm thực hiện các tác động của quản lý.
Nói cách khác, hình thức quản lý hành chính nhà nước là biểu hiện có tính chất tổ chức – pháp lý của những hoạt động cụ thể cùng loại của chủ thể quản lý hành chính nhà nước nhằm hoàn thành những nhiệm vụ được đặt ra trước đó.
b. Các hình thức quản lý hành chính nhà nước
* Ban hành văn bản quy phạm pháp luật
Thông qua ban hành văn bản quy phạm pháp luật hành chính, các chủ thể của quản lý hành chính nhà nước:
- Ấn định những quy tắc xử sự trong quản lý hành chính nhà nước.
- Quy định những nhiệm vụ cụ thể, quyền hạn, nghĩa vụ và trách nhiệm của các bên tham gia quan hệ quản lý hành chính nhà nước.
- Xác định các mối liên hệ chủ yếu giữa các bộ phận của hệ thống quản lý hành chính nhà nước.
- Quy định những hạn chế và những điều ngăn cấm.
- Trong trường hợp cần thiết, đặt ra những nghĩa vụ đặc biệt hoặc trao quyền hạn đặc biệt.
- Thực hiện chức năng bảo vệ pháp luật và đặt ra những bảo đảm pháp lý cho trật tự quản lý hành chính nhà nước.
* Ban hành văn bản áp dụng pháp luật.
Đây là hình thức hoạt động chủ yếu của cơ quan hành chính nhà nước.
* Thực hiện các hoạt động khác mang tính chất pháp lý
Hình thức này được tiến hành khi phát sinh những điều kiện tương ứng được định trước trong quy phạm pháp luật nhưng không cần ban hành văn bản áp dụng pháp luật.
VD:
- Áp dụng biện pháp ngăng chặn và phòng ngừa vi phạm pháp luật như kiểm tra giấy phép lái xe, kiểm tra việc đăng ký tạm trú, tạm vắng…
- Đăng ký những sự kiện nhất định như đăng ký khai sinh, khai tử…
* Áp dụng những biện pháp tổ chức trực tiếp.
Kết quả hoạt động này không tạo ra những quy tắc bắt buộc chung, không làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt các quan hệ pháp luật nhưng lại là khâu then chôt trong việc giải quyết những nhiệm vụ đặt ra cho cơ quan hành chính nhà nước, trong việc mở rộng một cách toàn diện công tác tổ chức vào quần chúng, trong việc nghiên cứu và phổ biến kinh nghiệm tiên tiến…
VD: Hoạt động chuẩn bị và tiến hành các cuộc họp, hội nghị, hội thảo
VD: Giải thích nội dung và mục đích của các quyết định quản lý.
* Thực hiện các tác động về nghiệp vụ - kỹ thuật
Những hoạt động này rất đa dạng: chuẩn bị tài liệu cho việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật và ban hành văn bản áp dụng pháp luật, cho việc tiến hành những biện pháp tổ chức, làm báo cáo, công tác lưu trữ hồ sơ…
Tích cực ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào quản lý hành chính (VD: ứng dụng công nghệ thông tin) đã đem lại hiệu quả vượt bậc cho quản lý hành chính.
2. Phương pháp quản lý hành chính nhà nước
a. Khái niệm
Phương pháp quản lý hành chính là cách thức thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của bộ máy hành chính nhà nước, cách thức tác động của chủ thể quản lý hành chính nhà nước lên các đối tượng quản lý nhằm đạt được hành vi xử sự cần thiết.
b. Các yêu cầu cơ bản của phương pháp quản lý hành chính nhà nước:
- Phải có khả năng đảm bảo tác động quản lý lên các lĩnh vực chủ ếu của quản lý hành chính nhà nước, có tính đặc điểm của mỗi lĩnh vực và sự phát triển chung của xã hội.
- Phải đa dạng và thích hợp để tác động lên những đối tượng khác nhau.
- Phải có tính khả thi;
- Phải có khả năng đem lại hiệu quả cao.
- Phải mềm dẻo, linh hoạt,
- Phải có tính sáng tạo;
- Phải hoàn toàn phù hợp với đường lối chính sách của Đảng;
3. Các phương pháp quản lý hành chính nhà nước
a. Phương pháp thuyết phục và phương pháp cưỡng chế
* Thuyết phục là làm cho đối tượng quản lý hiểu rõ sự cần thiết và tự giác thực hiện những hành vi nhất định hoặc tránh thực hiện những hành vi nhất định. Thông qua phương pháp thuyết phục, các chủ thể của quản lý hành chính nhà nước giáo dục cho mọi công dân nhận thức đúng đắn về kỷ cương xã hội, kỷ luật nhà nước, động viên họ tự giác thực hiện nghĩa vụ đối với nhà nước và xã hội.
Biện pháp: giải thích, nhắc nhở, tổ chức, giáo dục, kêu gọi, cung cấp thông tin, tuyên truyền, phát triển các hình thức tự quản xã hội, tổ chức thi đua khen thưởng, phổ biến kinh nghiệm tiên tiến…
* Cưỡng chế là biện pháp bắt buộc bằng bạo lực của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với những cá nhân hoặc tổ chức nhất định trong những trường hợp pháp luật quy định, về mặt vật chất hay tinh thần nhằm buộc các cá nhân hay tổ chức đó phải thực hiện hoặc không được thực hiện những hành vi nhất định hoặc phải phục tùng những hạn chế nhất định đối với tài sản của cá nhân hay tổ chức hoặc tự do thân thể của các cá nhân.
Phương pháp cưỡng chế trong quản lý hành chính nhà nước thể hiện trong việc áp dụng những quyết định bắt buộc đơn phương đối với đối tượng quản lý. Phương pháp này thường được sử dụng trong những trường hợp quyết định đơn phương không được thực hiện một cách tự giác.
Có 4 loại cưỡng chế nhà nước
- Cưỡng chế hình sự
- Cưỡng chế dân sự;
- Cưỡng chế kỷ luật;
- Cưỡng chế hành chính:
Gồm: Các hình thức xử phạt vi phạm hành chính; các biện pháp ngăn chặn vi phạm hành chính và bảo đảm việc xử lý vi phạm hành chính; các biện pháp khắc phục hậu quả của vi phạm hành chính; các biện pháp xử lý hành chính khác; các biện pháp phòng ngừa hành chính; các biện pháp được áp dụng trong trường hợp thật cần thiết vì lý do an ninh, quốc phòng và lợi ích quốc gia.
Chú ý: Chỉ áp dụng biện pháp cưỡng chế khi đã sử dụng tất cả các biện pháp khác mà không có hiệu quả. Khi thực hiện, cần quan tâm đến việc hạn chế đến tối đa những thiệt hại có thể gây ra cho tổ chức, cá nhân và đặc điểm của đối tượng bị cưỡng chế.
b. Phương pháp hành chính và phương pháp kinh tế
* Phương pháp hành chính là phương pháp quản lý bằng cách ra chỉ thị từ trên xuống, nghĩa là ra những quyết định bắt buộc đối với đối tượng quản lý. Đặc trưng của phương pháp này là sự tác động trực tiếp lên đối tượng quả lý đạt được bằng cách quy định đơn phương nhiệm vụ và phương án hành động của đối tượng quản lý.
Biểu hiện cụ thể: quy định những quy tắc xử sự chung trong quản lý hành chính nhà nước; quy định quyền hạn và nghĩa vụ của các cơ quan dưới quyền, giao nhiệm vụ cho các cơ quan đó; thỏa mãn đơn phương yêu cầu hợp pháp của công dân; kiểm tra việc chấp hành pháp luật, việc thực hiện nhiệm vụ của cấp dưới…
* Phương pháp kinh tế là phương pháp tác động gián tiếp lên hành vi của các đối tượng quản lý thông qua việc sử dụng những đòn bẩy kinh tế tác động đến lợi ích của con người.
Các đòn bẩy kinh tế như: quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh; chế độ hạch toán kinh tế, chế độ thưởng… nhằm tạo điều kiện vật chất thuận lợi cho hoạt động có hiệu quả của đối tượng quản lý, động viên các đối tượng quản lý phát huy năng lực sáng tạo, chọn cách tốt nhất để hoàn thành nhiệm vụ, sử dụng hợp lý tài sản được giao, phát huy và khai thác hợp lý nhất những khả năng sẵn có.
Chú ý: Hai phương pháp này bổ sung cho nhau, được kết hợp sử dụng trong quản lý nhà nước. Tuy nhiên, xét về tính ổn định, phương pháp hành chính có tính ổn định cao hơn. Khi áp dụng phương pháp hành chính, cần chú ý đến tính khoa học, tính khuôn khổ, tránh tình trạng độc đoán.
VI. THỦ TỤC HÀNH CHÍNH
1. Khái niệm thủ tục hành chính
2. Chủ thể của thủ tục hành chính
3. Các loại thủ tục hành chính
4. Các giai đoạn của thủ tục hành chính
a. Khởi xướng vụ việc
b. Xem xét và ra quyết định giải quyết vụ việc
c. Thi hành quyết định
d. Khiếu nại, giải quyết khiếu nại, xem xét lại quyết định đã ban hành
5. Cải cách thủ tục hành chính
VII. QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH
1. Khái niệm và đặc điểm của quyết định hành chính
a. Khái niệm
b. Đặc điểm
2. Phân loại quyết định hành chính
a. Căn cứ vào tính chất pháp lý
- Quyết định chủ đạo
- Quyết định quy phạm
- Quyết định cá biệt
b. Căn cứ vào chủ thể ban hành
- Quyết định hành chính của Chính phủ, thủ tướng Chính phủ
- Quyết định hành chính của các bộ và cơ quan ngang bộ
- Quyết định hành chính của ủy ban nhân dân
- Quyết định hành chính của các cơ quan chuyên môn thuộc ủy ban nhân dân.
- Quyết định hành chính liên tịch.
3. Tính hợp pháp và hợp lý của quyết định hành chính
a. Yêu cầu về tính hợp pháp
- Quyết định hành chính phải được ban hành bởi những chủ thể có thẩm quyền.
- Quyết định hành chính phải phù hợp với luật về nội dung cũng như mục đích.
- Quyết định hành chính phải được ban hành theo đúng trình tự, thủ tục và hình thức do pháp luật quy định.
b. Yêu cầu về tính hợp lý của quyết định hành chính
- Quyết định hành chính phải bảo đảm được lợi ích của Nhà nước và nguyện vọng của nhân dân, không được tách rời giữa lợi ích của Nhà nước với nguyện vọng của nhân dân.
- Quyết định hành chính phải xuất phát từ yêu cầu khách quan của việc thực hiện nhiệm vụ quản lý hành chính nhà nước, tuyệt đối không được xuất phát từ ý muốn chủ quan của chủ thể ra quyết định.
- Ngôn ngữ của quyết định phải rõ ràng, dễ hiểu, ngắn gọn, các thuật ngữ pháp lý phải chính xác, không được đa nghĩa.
- Quyết định hành chính phải có tính dự báo
- Quyết định hành chính phải có tính khả thi.
Bài 2:
ĐỊA VỊ PHÁP LÝ HÀNH CHÍNH CỦA CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
Bài 3
ĐỊA VỊ PHÁP LÝ HÀNH CHÍNH CỦA CÁN BỘ, CÔNG CHỨC, VIÊN CHỨC NHÀ NƯỚC
Bài 4:
VI PHẠM HÀNH CHÍNH VÀ TRÁCH NHIỆM HÀNH CHÍNH
I. Vi phạm hành chính
1. Khái niệm
Vi phạm hành chính là hành vi do cá nhân, tổ chức thực hiện với lỗi cố ý hoặc vô ý, vi phạm các quy định của pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật bị xử phạt hành chính.
2. Các yếu tố cấu thành của vi phạm hành chính
a. Mặt khách quan
Dấu hiệu bắt buộc trong mặt khách quan của vi phạm hành chính là vi phạm hành chính. Nói cách khác, hành vi mà tổ chức, cá nhân thực hiện là hành vi xâm phạm các quy tắc quản lý nhà nước và đã bị pháp luật hành chính ngăn cấm (thể hiện bằng quy định rằng những hành vi này sẽ bị xử phạt bằng các hình thức, biện pháp xử phạt hành chính).
Đối với một số loại vi phạm hành chính cụ thể, dấu hiệu trong mặt khách quan có tính chất phức tạp, không đơn thuần chỉ có một dấu hiệu nọi dung trái pháp luật trong hành vi mà còn có thể có sự kết hợp với những yếu tố khác. Thường là:
- Thời gian thực hiện hành vi vi phạm.
VD: Hành vi “gây tiếng ồn lớn, làm ồn ào, huyên náo trong giờ nghỉ đêm của nhân dân” chỉ bị coi là “hành vi gây ảnh hưởng đến sự yên tĩnh chung” theo quy định của Đ8 – NĐ 150/2005/NĐ-CP của Chính phủ ngày 12/12/2005 khi thực hiện trong khoảng thời gian từ 22g đến 5g sáng.
- Địa điểm thực hiện hành vi vi phạm
VD: Người say rượu chỉ bị coi là “hành vi vi phạm quy định về sản xuất, mua bán, sử dụng rượu, bia” theo quy định tại Điều 7 – NDD150/20050NĐ-CP ngày 12/12/2005 của Chính phủ khi được thực hiện tại công sở, nơi làm việc, trong các khách sạn, nhà hàng và các nơi công cộng.
- Công cụ, phương tiện vi phạm
VD: Hành vi quảng cáo trên màn hình điện tử đặt ở ngoài trời chỉ bị coi là “vi phạm các quy định về hình thức quảng cáo” theo quy định tại Điều 49 – NĐ 56/2006/NĐ-CP ngày 06/6/2006 của Chính phủ khi có sử dụng âm thanh.
- Hậu quả và mối quan hệ nhân quả
Đối với vi phạm hành chính, nhiều trường hợp không nhất thiết phải có hậu quả cụ thể.
b. Mặt chủ quan
Dấu hiệu bắt buộc trong mặt chủ quan của vi phạm hành chính là dấu hiệu lỗi của chủ thể vi phạm. Vi phạm hành chính phải là hành vi có lỗi thể hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý (tức là có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi).
Ngoài ra, còn có thể có dấu hiệu khác như mục đích.
VD: Hành vi trốn trên cách phương tiện xuất cảnh, nhập cảnh được coi là hành vi vi phạm các quy định về xuất cảnh, nhập cảnh theo quy định tại khoản 3- điều 22 – NĐ 150/2005/NĐ-CP ngày 12/12/2005 của Chính phủ khi nhằm mục đích trốn vào Việt Nam hoặc trốn ra nước ngoài.
Tổ chức phải chịu trách nhiệm về mọi vi phạm pháp luật hành chính do mình gây ra (không đặt ra vấn đề có lỗi hay không có lỗi của tổ chức) và có nghĩa vụ chấp hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính. Đồng thời, tổ chức phải có trách nhiệm xác định lỗi của người thuộc tổ chức mình trực tiếp gây ra vi phạm hành chính trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ được giao để truy cứu trách nhiệm kỷ luật và bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật.
c. Chủ thể vi phạm hành chính
Chủ thể thực hiện hành vi vi phạm hành chính là các tổ chức, cá nhân có năng lực chịu trách nhiệm hành chính theo quy định của pháp luật hành chính.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, cá nhân là chủ thể của vi phạm pháp luật hành chính phải là người không mắc các bệnh tâm thần hoặc các bệnh khác làm mất khả năng nhận thức và điều khiển hành vi và đủ độ tuổi do pháp luật quy định. Cụ thể:
- Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi là chru thể của vi phạm hành chính trong trường hợp thực hiện hành vi với lỗi cố ý.
- Người từ đủ 16 tuổi trở lên có thể là chủ thể của vi phạm hành chính trong mọi trường hợp.
- Tổ chức là chủ thể của vi phạm hành chính bao gồm: các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, các đơn vị kinh tế, các đơn vị thuộc lực lượng vũ trang nhân dân và các tổ chức khác có tư cách pháp nhân theo quy định của pháp luật.
Cá nhân, tổ chức nước ngoài cũng có thể là chủ thể vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật VN, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà VN ký kết hoặc tham gia có quy định khác.
d. Khách thể của vi phạm hành chính
Khách thể của vi phạm hành chính là trật tự quản lý hành chính nhà nước được pháp luật hành chính quy định và bảo vệ.
II. Trách nhiệm hành chính
1. Khái niệm
Trong khoa học pháp lý, thuật ngữ “trách nhiệm pháp lý” của tổ chức, cá nhân thường được hiểu là hậu quả pháp lý bất lợi mà NN buộc các tổ chức, cá nhân vi phạm phải gánh chịu thể hiện ở việc họ bị buộc pahri thực hiện các biện pháp chế tài đã được quy định trong pháp luật.
Trách nhiệm hành chính là hậu quả pháp lý bất lợi mà NN buộc các tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính phải gánh chịu.
2. Xử phạt vi phạm hành chính
a. Khái niệm
Xử phạt vi phạm hành chính là hoạt động của các chủ thể có thẩm quyền, căn cứ vào các quy định pháp luật hiện hành, quyết định áp dụng các biện pháp xử phạt hành chính và biện pháp cưỡng chế hành chính khác (trong trường hợp cần thiết, theo quy định của pháp luật) đối với các tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính.
Đặc điểm:
- Xử phạt vi phạm hành chính được áp dụng với các cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật.
- Xử phạt hành chính được tiến hành bởi các chủ thể có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
- Xử phạt vi phạm hành chính được tiến hành theo những nguyên tắc, trình tự, thủ tục được quy định trong các văn bản pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành.
- Kết quả của hoạt động xử phạt vi phạm hành chính thể hiện ở quyết định xử phạt vi phạm hành chính, ghi nhận các hình thức, biện pháp xử phạt áp dụng đối với tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính.
b. Các hình thức xử phạt vi phạm hành chính
*Cảnh cáo
Hình thức này áp dụng đối với tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính nhỏ, lần đầu, có tình tiết giảm nhẹ hoặc đối với mọi hành vi vi phạm hành chính do người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện. Khi xử phạt cảnh cáo, người có thẩm quyền quyết định xử phạt bằng văn bản.
Chỉ áp dụng hình thức xử phạt cảnh cáo đối với cá nhân từ đủ 16 tuổi trở lên hoặc tổ chức vi phạm hành chính khi có đủ điều kiện sau:
- Hành vi vi phạm mà tổ chức, cá nhân thực hiện được văn bản pháp luật quy định là có thế áp dụng hình thức xử phạt cảnh cáo.
- Việc áp dụng hình thức xử phạt cảnh cáo đối với tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính chỉ được thực hiện khi đó là vi phạm lần đầu và có tình tiết giảm nhẹ theo quy định của pháp luật.
- Hình thức xử phạt cảnh cáo được áp dụng với tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật.
- Hình thức xử phạt cảnh cáo do người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính quyết định áp dụng, theo thủ tục xử phạt vi phạm hành chính đã được pháp luật quy định.
* Phạt tiền
Phạt tiền là hình thức xử phạt chính. Nếu cá tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính không bị xử phạt cảnh cáo thì xẽ bị xử phạt bằng hình thức phạt tiền.
Mức phạt: Đọc
Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002
Pháp lệnh sửa đổi Pháp lệnh Xử lý VPHC năm 2007
Pháp lệnh sửa đổi Pháp lệnh Xử lý VPHC năm 2008
Nghị Định 128/2008/NĐ-CP ngày 16/12/2008 hướng dẫn thi hành pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 và pháp lệnh sửa đổi PLXL VPHC năm 2008.
* Trục xuất: vừa là hình thức phạt chính, vừa là hình thức phạt bổ sung.
Trục xuất là việc buộc người nước ngoài vi phạm hành chính trên lãnh thổ VN phải rời khỏi VN.
* Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề
Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề của tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính có thời hạn hoặc không thời hạn khi tổ chức, cá nhân đó đã vi phạm nghiêm trọng những quy định trong việc sử dụng loại giấy phép, chứng chỉ hành nghề đó.
* Tịch thu tang vật, phương tiện sử dụng để vi phạm hành chính
Là việc người có thẩm quyền xử phạt quyết định áp dụng biện pháp tịch thu để sung vào công quỹ nhà nước các tài sản, vật dụng, hàng hóa, tiền bạc… dùng để thực hiện hành vi vi phạm hành chính hoặc do vi phạm hành chính mà có.
Bài 5:
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC TRÊN CÁC LĨNH VỰC
I. Quản lý nhà nước về tài sản nhà nước
1. Khái niệm tài sản nhà nước
a. Khái niệm
Có nhiều cách hiểu khác nhau:
- Đồng nhất tài sản nhà nước với tài sản công
- Đồng nhất tài sản nhà nước với tài sản sở hữu toàn dân.
Sở hữu nhà nước: một khái niệm pháp lý chỉ một trong các hình thức được pháp luật quy định.
Sở hữu toàn dân: là một trong các chế độ sở hữu được quy định trong Hiến pháp và là một trong những yếu tố của chế độ kinh tế khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa Xã hội ở VN.
Hình thức sở hữu nhà nước là biểu hiện pháp lý của chế độ sở hữu toàn dân để đảm bảo tất cả tài sản trong phạm vi lãnh thổ, vùng trời, vùng biển VN đều có chủ sở hữu cụ thể, xác định và bảo đảm những lợi ích từ tài sản phải thuộc về Nhà nước và nhân dân VN.
Tóm lại: Tài sản nhà nước là những tài sản thuộc sở hữu nhà nước được xác lập trên cơ sở chế độ sở hữu toàn dân theo quy định của pháp luật do các cơ quan nhà nước, đơn vị, tổ chức nhà nước hoặc do các tổ chức, cá nhân khác được nhà nước giao quản lý, sử dụng và khai thác tài sản để phục vụ công cuộc xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
b. Các loại tài sản nhà nước:
- Quỹ ngân sách nhà nước
- Tài sản nhà nước ở khu vực hành chính, sự nghiệp
- Tài sản nhà nước tại doanh nghiệp
- Tài sản nhà nước thuộc kết cấu hạ tầng
- Tài sản dự trữ quốc gia
- Đất, tài nguyên thiên nhiên và các nguồn lợi
- Tài sản được xác lập sở hữu nhà nước theo quy định của pháp luật
2. Quản lý nhà nước về tài sản nhà nước
a. Khái niệm quản lý nhà nước về tài sản nhà nước
Quản lý nhà nước về tài sản nhà nước là hoạt động do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện trên cơ sở quy dịnh của pháp luật nhằm đảm bảo cho tài sản nhà nước được sử dụng đúng pháp luật, tiết kiệm và hiệu quả.
2. Nội dung của quản lý nhà nước về tài sản nhà nước
Các loại tài sản nhà nước khác nhau có chế độ, mục đích sử dụng và do các chủ thể khác nhau quản lý, khai thác, sử dụng nên nội dung quản lý nhà nước về tài sản nhà nước cũng được pháp luật quy định phù hợp với từng loại tài sản.
a. Quản lý tài sản nhà nước ở khu vực hành chính sự nghiệp
- Tại cơ quan nhà nước, đơn vị lực lượng vũ trang ( cơ quan nhà nước)
Các cơ quan nhà nước được giao tài sản bằng hiện vật, quyền sử dụng đất hoặc được nhà nước đầu tư ngân sách để xây dựng, mua sắm tài sản, phải sử dụng đúng mục đích, tiêu chuẩn, chế độ, bảo đảm hiệu quả, tiết kiệm.
Cơ quan nhà nước phải lập, quản lý, lưu trữ hồ sơ tài sản nhà nước theo quy định pháp luật về kế toán, thống kê; thực hiện việc kiểm kê, báo cáo số lượng, giá trị, tình hình quản lý, sử dụng tài sản nhà nước của cơ quan mình. Tài sản nhà nước phải được hạch toán kịp thời, đầy đủ cả về hiện vật và giá trị theo quy định của pháp luật về kế toán, thống kê. Các cơ quan tài chính thống nhất quản lý, lưu trữ hồ sơ tài chính.
Trong quá trình sử dụng tài sản nhà nước, cơ quan nhà nước được cấp kinh phí từ ngân sách nhà nước để kiểm tra, bảo dưỡng, sửa chữa theo đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức. Nếu sử dụng không đúng mục đích, định mức… tài sản sẽ bị NN thu hồi. Tài sản hết hạn sử dụng, hư hỏng được NN thanh lý hoặc tiêu hủy nếu nó gây nguy hại cho môi trường.
- Tại đơn vị sự nghiệp công lập
Gồm những tài sản NN giao bằng hiện vật, quyền sử dụng đất, tài sản được đầu tư xây dựng, mua sắm từ ngân sách nhà nước hoặc bằng tiền có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước.
Các đơn vị sự nghiệp công lập tự chủ về tài chính có quyền sử dụng tài sản nhà nước vào mục đích sản xuất, kinh doanh dịch vụ, cho thuê, liên doanh, liên kết theo quy định của pháp luật nhưng phải bảo toàn, phát triển vốn và tài sản nhà nước giao và thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với nhà nước.
Đơn vị sự nghiệp công lập chưa tự chủ tài chính được thực hiện theo quy định pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước tại cơ quan nhà nước.
- Tại các tổ chức xã hội
Thực hiện theo quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước tại các cơ quan nhà nước.
b. Quản lý tài sản nhà nước tại doanh nghiệp
Gồm tài sản nhà nước tại công ti nhà nước, tài sản nhà nước tại các doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp, Luật đầu tư nước ngoài tại VN, Luật Hợp tác xã.
- Tại công ty nhà nước
NN quản lý tài sản thông qua việc quy định quyền, nghĩa vụ của công ty nhà nước trong quản lý, sử dụng tài sản nhà nước, quy định chế độ sử dụng tài sản nhà nước và trách nhiệm của chủ sở hữu, người đại diện chủ sở hữu tài sản nhà nước tại doanh nghiệp.
Công ty nhà nước có quyền sử dụng vốn nhà nước vào hoạt động kinh doanh, có nghĩa vụ bảo toàn và phát triển vốn, bảo đảm hiệu quả sử dụng vốn, đảm bảo quyền lợi của các chủ nợ, khách hàng, người lao động theo quy định của pháp luật.
Công ty nhà nước có quyền huy động vón theo quy định của pháp luật để phục vụ hoạt động kinh doanh. Công ty có nghĩa vụ mở sổ theo dõi các khoản nợ, lãi và thanh toán nợ đúng thời hạn; phải thực hiện đúng chế độ quản lý, sử dụng vốn, tài sản, phân phối lợi nhuận, chế độ tài chính và chế độ kế toán…
Công ty NN có quyền sử dụng vốn, tài sản NN thuộc quyền quản lý để đầu tư ra ngoài công ty nhưng phải tuân theo quy định pháp luật và bảo đảm hiệu quả, an toàn và phát triển vốn, không ảnh hưởng đến mục tiêu hoạt động của công ty.
Đối với tài sản cố định, công ty phải thực hiện việc trích khấu hao gồm cả tài sản cố định không cần dùng, chờ thanh lý, trừ những tài sản cố định thuộc công trình phúc lợi công cộng.
- Quản lý vốn nhà nước đầu tư vào các doanh nghiệp khác
Được thực hiện thông qua đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp khác là Bộ tài chính; bộ quản lý ngành; ủy ban nhân dân cấp tỉnh; tổng công ty, công ty nhà nước; Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước (Tổng công ty này sẽ tiếp nhận nhiệm vụ quản lý tài sản nhà nước tại các doanh nghiệp từ các bộ, ủy ban nhân dân cấp tỉnh sau khi thực hiện việc chuyển giao). Đại diện chủ sở hữu phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp cử người đại diện để thực hiện quyền của cổ đông, thành viên góp vốn, bên liên doanh trong hoạt động của doanh nghiệp.
Việc quản lý vốn NN đầu tư vào doanh nghiệp khác được th